Thân thế và sự nghiệp Đặng_Văn_Kiều

Đặng Văn Kiều[3], trước tên Đặng Duy Kiệu, hiệu Nghiêu Đình tiên sinh, sinh ngày 28 tháng 7 năm Giáp Thân (22-8-1824) tại xã Phất Nạo, huyện Thạch Hà, nay xã Thạch Bình, Thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Ông là cháu 10 đời vị thủy tổ Đặng Đại ở xã Phất Não. Thân sinh ông, Đặng Duy Thận, còn có tên là Thuần (1795-1848) là người có hoc nhưng chỉ làm phó lý. Sau khi con mình thành đạt thì ông được tặng hàm Phụng thành đại phu.

Gia phả ghi chép như sau. Một lần, ông Thận đưa dân phu đi đắp đường, đến chậm bị viên tri phủ quát nạt và đánh mấy chục roi. Uất ức quá,ông quyết nuôi con ăn học, dặn bảo con phải rửa nhục. Lúc này ông Kiều con trưởng, đang thụ giáo với cụ đồ Lê Thức ở xã Vĩnh Lại. Ông Thận bán ruộng nương cố mời được vị thầy học nổi tiếng Phan Nhật Tính ở xã Yên Đồng, huyện La Sơn, cử nhân khoa Tân Sửu (1841) là Tiến sĩ khoa Nhâm Dần (1842) về dạy các con.

Vốn thông minh và chăm chỉ lại có thầy giỏi, việc học của Đặng Văn Kiều vượt trội hẳn lên. Khoa Quý Mão (1843) 19 tuổi, ông đi thi Hương lần đầu và đỗ Tú tài. Chính trong khoa thi này, ông đã được quan trường đổi tên Duy Kiệu thành Văn Kiều. Khoa sau Bính Ngọ (1846), ông lại đỗ Tú tài lần thứ hai. Đến khoa Nhâm Tý (1852) ông mới đỗ Cử nhân thứ 6 và xuất chính.

Năm Ất Sửu (1865), niên hiệu Tự Đức thứ 18, ông thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa) khoa Nhã sĩ (Sắc tứ đệ nhất giáp, đệ tam danh, Nhã sĩ cập đệ đệ nhất danh). Năm ấy ông được thăng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, ra án sát Quảng Bình.

Ông Kiều tự thấy mình làm chính chức không phù hợp, bèn tâu xin cải bổ sang giáo chức. Năm Đinh Mão (1867) ông được cử đi làm phó chủ khảo trường Thừa Thiên. Năm Canh Ngọ (1870), ông về kinh giữ chức Chưởng giáo tôn học đường, nơi chuyên dạy con cháu những người trong Tôn thất.

Năm Quý Dậu (1873), ông làm Toản tu Quốc sử quán, kiêm Biện lý bộ Lễ. Ông tham dự việc hợp soạn Khâm định Việt sử. Ông làm ở Quốc Sử quán hơn 10 năm rồi mất.

Vào năm 1874 cả nước đang sôi sục phản đối việc triều đình Huế ký hòa ước Giáp Tuất (15-3-1874) nhường hẳn sáu tỉnh Nam kỳ cho Pháp. Cuộc khởi nghĩa "Cờ vàng" do Tú Tấn (tức Trần Tấn), Tú Mai (tức Đặng Như Mai) ở Nghệ An, Đội Lựu (tức Trần Quang Cán), Tú Khanh (tức Nguyễn Huy Điển) ở Hà Tĩnh, cầm đầu đánh hạ đạo thành Hà Tĩnh, làm chấn động triều đình Huế[4]. Theo truyền ngôn ở vùng Kỳ Anh thì Thám hoa Đặng Văn Kiều được cử ra dẹp cuộc nổi dậy của Lân Biểu (một tướng cờ vàng dưới quyền Tú Khanh) đóng quân ở Hòa Hiệu. Nhưng Đặng Văn Kiều cáo ốm, không có mặt trong cuộc hành quân này.

Sau sự việc này, Đặng Văn Kiều trở lại kinh đô, giữ chức cũ. Ngày 14-7 năm Tân Tỵ (8-8-1881) ông mất tại nhiệm sở, được triều đình cấp 300 quan tiền tuất và đưa quan tài về an táng tại quê nhà.